Tên Việt Nam: Hổ
cốt
Vị thuốc hổ cốt còn gọi Xương cọp,Ô duyệt cốt, Đại trùng cốt
(Trửu Hậu), Ư thỏ cốt (Tả
Truyện), Ô trạch (Hán Thư), Bá đô cốt, Lý phụ cốt,
Hàm cốt, Lý dĩ cốt, Sạm miêu cốt, (Bản
Thảo Cương Mục), Uy cốt, Hàm cốt, Trành
thỏ cốt, Vụ thái cốt (Hoà Hán Dược Khảo), Hổ hĩnh
cốt, Tứ thối hổ cốt, Hổ
đầu cốt, Hổ tích cốt, Hổ lặc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tác dụng: Khu phong, hoạt lạc, đồng thời có tác dụng mạnh gân cốt,
trị bại liệt.
Chủ trị: Trị phong thấp, nhức mỏi xương lâu ngày, gân cốt yếu.
Liều lượng: 3 -8 chỉ.
Kiêng kỵ: Người huyết hư hỏa thịnh cấm dùng.
Phần dùng làm thuốc:
1- Toàn bộ xương Cọp đều có thể dùng làm thuốc được, xương chân gọi
là ‘Hổ hỉnh cốt’,
xương đùi gọi là ‘Hổ thối’, xương sọ gọi là ‘Hổ đầu’, xương
cột sống được gọi là ‘Hổ tích’,
xương sườn gọi là ‘Hổ lặc’...nhưng tốt nhất là
xương 2 ống chân trước (humerus), vì khí lực toàn
thân con Cọp là chú trọng bởi
hai chân trước của nó.
2- Xương Cọp nấu thành cao gọi là Cao hổ cốt (Xem: Hổ cốt cao).
Mô tả dược liệu: Xương Hổ có phân biệt Xương đầu, xương cổ, xương
mình, (gồm xương sống,
xương sườn, xương cùng cụt) và xương tứ chi, lấy xương
tứ chi và xương đầu là tốt nhất, mà
trong xương tứ chi thì xương chi trước là
tốt nhất, xương lòng bàn chân và kế đó là xương chi
sau, xương đầu gối của Hổ
thường bán từng cặp, rất quí, thường người ta cho rằng xương hổ lớn
(trên 5kg)
và Hổ đực tốt hơn xương Hổ con và Hổ cái. Ví dụ như trong một bộ xương hổ nặng
6kg thì xương đầu nặng 1kg chiếm hết 15% toàn bột trọng lượng cả bộ xương.
Xương 4 chân
nặng, 3,390kg chiếm 52%. Xương sống kể cả xương cổ nặng 0,900kg
chiếm 14%. Xương
dườn 13 đôi nặng 0,335kg chiếm 5,5% (không kể xương ức). Xương
chậu nặng 0,355kg (cả
hai mảnh) chiếm 55%. Xương bả vai nặng 0,260kg chiếm 4%
xương cùng cụt nặng 0,146kg
chiếm 2,2% hai xương bánh chè nặng 0,030kg chiếm
0,45%. Sắc xương khô cả hổ đã chết màu
vàng trắng, ít dầu chất lượng kém nhất,
không dùng vào thuốc. Xương Hổ lấy màu vàng ngà, to,
tươi, chất nặng, ít da
thịt là loại tốt. Xương Hổ do trúng tên độc mà chết có màu xanh trong tủy
xương
có thể chứa chất độc, không dùng vào thuốc. Xương tứ chi của Hổ thô khỏe, các
khớp
phình lớn, rất phát triển, mặt ngoài màu ngà, phẳng trơn láng nhuận, chất
mịn, cứng nặng, mặt cắt
ngang của xương thấp tủy chứa chất béo, loại tươi chứa
chất béo rất nhiều, loại cất dấu tương
đối lâu thì (dầu chất béo) tương đối
khô, thể hiện chất tủy dạng xơ mướp, có ít chất mỡ, rất thơm
mãnh liệt, không
có mùi tanh hôi.
Xưa nay trong hàng bán Hổ cốt thường hay xen lẫn xương Beo
(Báo cốt), khó phân biệt, cũng
đã từng có xen hàng giả bằng xương Gấu (Hùng
cốt), xương Heo rừng (Dã trư cốt). Do đó việc
phân biệt Hổ cốt rất quan trọng,
có một số điểm khác biệt của cần lưu ý:
- Phân biệt giữa xương Hổ và xương Beo:
- Cả bộ xương: Cả bộ xương Hổ thô khỏe hơn so với xương Beo, sắc
xương màu vàng ngà,
xương đầu to mà tròn. Răng hàm có hình chữ ‘tam sơn’.
- Xương chày (Hỉnh cốt) có “phong nhãn” (lỗ thông gió) có nơi gọi
là ‘Phụng nhãn’ (Mắt
phụng), hơi vặn ở khuỷu, xương phụ, thô khỏe, khớp rất
phát triển, chi trước có 5 ngón, chi sau
có 4 ngón, lông da phần mu bàn chân
trước và sau màu vàng nhạt tới vàng cam, không lấm tấm
mà hơi có vằn sọc ngang
màu đen nâu, xương đuôi tương đối thô, và ngắn hơn.
- Cả bộ xương Beo: Ngắn nhỏ gầy hơn so với xương Hổ, sắc xương
trắng xanh, xương đầu
nhỏ mà dài, xương chày Beo tuy cũng có ‘phụng nhãn’ xương
phụ (bang cốt), nhưng tương đối
nhỏ mà dài hơn, khớp không phát triển bằng
xương Hổ, lông da mu bàn chân màu vàng cam đến
màu đỏ cam, có lấm tấm những
chấm tròn màu đen, xương đuôi nhỏ mà dài, thể tích xương đuôi
Hổ lớn hơn.
- Mặt cắt ngang của xương: Hổ hỉnh cốt (xương chày Hổ) sau khi cưa
ra chứa chất nhầy tương
đối nhiều hơn, loại còn tươi mà đặt nghiêng xương, chất
mỡ có thể giọt xuống, dù đã cất dấu lâu
ngày, chất dầu cũng không dễ gì khô,
khí vị chất dầu thơm hơn, xương chày Beo chứa chất dầu
không nhiều bằng xương
Hổ.
- Phân biệt giữa xương Gấu và xương Hổ:
Xương chày của Gấu không có ‘phụng nhãn’ và ‘bang cốt’ (xương phụ)
nhỏ mà dài hơnm khớp
không phát triển bằng Hổ và Beo. Xương màu vàng ngà nhưng
chất nhẹ, để lâu gõ vào nghe
tiếng rỗng trong, bên trong không có dầu mỡ.
Bào chế: Nạo sạch gân thịt còn sót lại trên xương, cưa thành từng
khúc dài khoảng 3,5cm. Rán
thơm bằng dầu mè hoặc chích bằng cách sao với cát
rồi thừa lúc đang còn nóng bỏ vào dấm tôi ua
để dùng. Cũng có thể nấu cao chế
thành Cao Hổ cốt, hoặc ngâm rượu dùng (Xem: Hổ cốt giao).
Cách dùng: Sắc uống hoặc ngâm rượu, nấu cao hoặc tán bột dùng trong
thuốc hoàn tán.